Triệu Vũ Đế và đất Thái Bình

Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), người sáng lập nước Nam Việt vào đầu thế kỷ thứ 2 TCN, từ lâu là một nhân vật gây nhiều tranh luận trong sử học Việt Nam.

Một mặt, ông bị nhìn nhận như kẻ xâm lược nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương. Mặt khác, ông được ghi nhận trong các văn bản cổ, như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, như một bậc khai quốc công thần có công dựng nước, xưng đế, kháng Hán.

Tài liệu địa phương tại xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình – đặc biệt là Ngọc phả và hệ thống thần tích đền Đồng Xâm – góp phần bổ sung một góc nhìn quan trọng: Thái Bình là nơi Triệu Đà khởi nghiệp, kết duyên, tuyển binh luyện sĩ trước khi lập quốc, xưng vương rồi xưng đế. Bài viết này nhằm làm rõ tầm quan trọng của vùng đất này trong tiến trình hình thành nhà nước Nam Việt, đồng thời đặt lại vấn đề nhìn nhận Triệu Vũ Đế từ góc độ lịch sử – văn hóa bản địa.

Một vị vua bị phân mảnh trong cách nhìn lịch sử

Triệu Đà (趙佗, 207 TCN – 137 TCN) là nhân vật lịch sử gắn liền với thời kỳ giao thời giữa nhà Tần và nhà Hán, được biết đến là người sáng lập nước Nam Việt, trị vì gần 70 năm, đóng đô tại Phiên Ngung (nay thuộc Quảng Châu). Trong sử Việt, ông được ghi nhận trong các áng văn chính luận như Hịch tướng sĩBình Ngô đại cáo, nhưng cũng bị các bộ chính sử phong kiến xếp vào hàng “ngoại tộc”, “giặc xâm lược”.

Nghịch lý này bắt nguồn từ hai hướng tiếp cận: một là từ lập trường bảo vệ thuần chủng quốc tộc Hùng Vương – Âu Lạc, hai là do ảnh hưởng của quan điểm “chính thống Hoa Hạ” trong sử Trung Hoa, vốn không thừa nhận một “đế quốc” phương Nam ngang hàng nhà Hán.

Tuy nhiên, nếu tiếp cận từ không gian văn hóa – lịch sử cụ thể, đặc biệt là từ Thái Bình – nơi Triệu Đà từng xây dựng căn cứ, kết duyên với người bản địa, luyện binh và phát động khởi nghĩa – thì bức tranh lịch sử sẽ hiện lên với nhiều tầng ý nghĩa khác nhau.

Tư liệu tại đền Đồng Xâm: Một trung tâm văn hóa gắn với sự nghiệp của Triệu Vũ Đế

Đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, Thái Bình) hiện vẫn lưu giữ nhiều tư liệu quý, bao gồm Ngọc phả, bia ký, sắc phong các triều đại (từ Lê – Nguyễn), và hệ thống lễ nghi thờ tự Triệu Vũ Đế và Hoàng hậu Trịnh Thị.

Theo Ngọc phả do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn, Triệu Đà là người Chân Định, theo cha là Nhâm Hi làm quan nhà Tần ở quận Nam Hải. Trong quá trình nam tiến, ông đến Đồng Sâm – vùng đất có thế núi dựng đứng như “quạt giăng” – lập đồn binh, kết duyên với Trịnh Thị Lan Nương, người địa phương có “văn võ song toàn”, được ghi nhận là Hoàng hậu Phương Thượng.

Từ đây, Triệu Đà thao luyện binh sĩ, chiêu mộ dân chúng, rồi tiến quân vào đất Âu Lạc, chiếm Cổ Loa, lập nước Nam Việt, và đến năm 196 TCN, chính thức xưng đế, trở thành Triệu Vũ Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Nam Việt, độc lập hoàn toàn khỏi nhà Hán.

Triệu Vũ Đế
Bức tranh đồng khắc họa đền thờ Triệu Đà, hiện được trưng bày tại sảnh điện. (Ảnh: Khai Mở)

Xưng đế chống Hán – một hành vi xác lập chủ quyền

Sau khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà ban đầu vẫn tỏ ra thần phục Hán Cao Tổ Lưu Bang. Tuy nhiên, đến thời Lữ Hậu (187–180 TCN), khi nhà Hán thi hành cấm vận Nam Việt, ông đã cử binh đánh trả, chiếm huyện Trường Sa, rồi tuyên bố xưng “Nam Việt Vũ Đế” – một hành động khẳng định vị thế quốc gia ngang hàng Trung Hoa.

Cần lưu ý rằng, thời cổ đại, danh xưng “Hoàng đế” chỉ được dùng duy nhất cho Thiên tử Trung Nguyên. Việc Triệu Đà tự xưng đế, rồi trả lời khéo léo trong công thư gửi Hán Văn Đế rằng:

“Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu ‘đế’ chỉ để tự vui, chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ”,
là biểu hiện rõ ràng của ngoại giao mềm, giữ danh dự quốc thể mà vẫn tránh đụng độ quân sự trong bối cảnh nhà Hán chưa ổn định.

Nhìn nhận lại vai trò lịch sử: Triệu Đà là kẻ xâm lược hay người dựng nước?

Nếu chỉ nhìn từ góc độ Âu Lạc, có thể xem ông là người xâm lược. Nhưng nếu nhìn từ toàn cảnh lịch sử, vai trò của ông phức tạp hơn. Triệu Đà đã thành lập một nhà nước có tổ chức. Có lãnh thổ, quân đội, triều đình, luật pháp.

So với mô hình liên minh bộ lạc của Hùng Vương – Âu Lạc, nhà nước Nam Việt có tổ chức vượt trội. Bản thân ông cũng không đơn thuần là người Hán. Ông lấy vợ bản địa, kết hợp văn hóa Lĩnh Nam và văn hóa Hoa Hạ.

Việc dân Thái Bình thờ phụng ông hơn 2.000 năm qua là bằng chứng sinh động. Không có “giặc ngoại xâm” nào lại được lập đền, ban sắc phong và cúng tế trong hệ thống thần linh bản địa như thế.

Triệu Vũ Đế
Khu vực sảnh điện thờ Triệu Vũ Đế (Ảnh: Tin360)

Thái Bình – đất xưng đế và giá trị văn hóa cần được tôn vinh

Trong Hịch tướng sĩ, Trần Hưng Đạo nhắc đến Triệu Vũ Đế như một bậc tiền nhân:

“Triệu Vũ Đế cởi áo gấm, sai kẻ tráng sĩ giữ ải Bắc, dựng nghiệp ở phương Nam…”

Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng viết:

“Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời dựng nước…”

Không thể có chuyện một “kẻ xâm lược” lại được xếp vào hàng những người dựng nước trong áng thiên cổ hùng văn như vậy. Việc các triều đại Lê, Nguyễn ban sắc phong và sắc chỉ thờ tự Triệu Vũ Đế tại đền Đồng Xâm càng củng cố thêm tính hợp pháp lịch sử của vai trò ông như một vị vua khai quốc thực sự.

Việc nhìn nhận lại vai trò của Triệu Vũ Đế từ góc nhìn địa phương Thái Bình không chỉ là điều chỉnh nhận thức lịch sử, mà còn là bước đi cần thiết trong công cuộc phục dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Thái Bình – với đền Đồng Xâm và hệ thống truyền thuyết – xứng đáng được ghi nhận là “đất xưng Đế” – nơi đặt nền móng cho một trong những nhà nước độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

  1. Ngọc phả đền Đồng Xâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, Thái Bình.
  2. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, thế kỷ XV.
  3. Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn, thế kỷ XIII.
  4. Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi, thế kỷ XV.
  5. Văn khắc, sắc phong triều Lê, Nguyễn tại di tích đền Đồng Xâm.
  6. Một số văn bia khảo cứu bởi Viện Sử học Việt Nam, bản lưu năm 1984.